Đôi nét về tác giả Chính Hữu và tác phẩm Đồng chí
Trước khi tìm hiểu, cảm nhận và phân tích bài thơ Đồng chí, chúng ta cần nắm được đôi nét về tác giả cũng như tác phẩm.
Nhà thơ Chính Hữu (1926 – 2007) có tên thật là Trần Đình Đắc. Ông nguyên quán ở Hà Tĩnh, sinh ra ở Vinh (Nghệ An). Tác giả Chính Hữu được biết đến như một Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị – Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam.
Các tác phẩm của Chính Hữu đều ghi được dấu ấn đậm nét trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Một số tác phẩm điển hình cho phong cách sáng tác của ông như “Ngày về” (1947), “Đầu súng trăng treo” (1969), “Đồng chí”….
“Đồng chí” là tác phẩm được ra đời năm 1948 trong phong trào kháng chiến chống Pháp thể hiện tình cảm đồng chí đồng đội giản dị mà sâu đậm, vượt lên trên mọi gian khó để cùng nhau sát cánh và chiến đấu. Với ngôn ngữ chân thực, giàu nghệ thuật cùng hình ảnh lãng mạn đã làm lay động trái tim biết bao nhiêu bạn đọc.
Phân tích bài thơ Đồng chí qua đọc hiểu tác phẩm
Từ việc nghiên cứu, soạn bài đồng chí cũng như bình giảng và cảm nhận về tác phẩm này. Khi phân tích bài thơ đồng chí chúng ta sẽ theo mạch cảm hứng cũng như các ý chính của bài thơ. Dưới đây là cách phân tích bài thơ đồng chí của Dinhnghia.vn
Cơ sở của tình đồng chí trong tác phẩm
Hình ảnh người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ ngay từ đầu tác phẩm đã được tác giả vẽ lên thật rõ nét. Phân tích bài thơ Đồng chí qua những dòng thơ này ở họ không chỉ là sự giản dị mộc mạc mà là những con người giàu tình cảm.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
Từ trên mọi miền Tổ quốc, ở mọi miền quê, những người lính cùng hội tụ ở một nơi. Ở đó, các anh có chung kẻ thù, cùng chung mục tiêu phấn đấu, cùng lý tưởng sống và luôn sẵn sàng hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp ấy. Những con người dường như xa lạ đó, chẳng mấy chốc trở nên thân nhau.
Hình ảnh thân thuộc về những miền quê “nước mặn đồng chua” “đất cày nên sỏi đá” đã cho thấy họ cũng một xuất thân – đó là những miền quê nghèo của đất nước Việt Nam. Nhưng họ đã đến bên nhau để cùng sát cánh và cùng chiến đấu. Phân tích bài thơ Đồng chí, chúng ta không thể quên xuất xứ của những người chiến sĩ này.
Biểu hiện của tình đồng chí trong tác phẩm
“Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”, họ đến với cách mạng cũng vì lý tưởng chiến đấu quên mình. Dường như chính lý tưởng chung này cùng với niềm tin chiến đấu đã khiến tình đồng đội ngày một bền chặt. Khi phân tích bài thơ Đồng chí, ta nhận thấy trong những câu thơ tiếp theo chính là biểu hiện của tình đồng đội trong tác phẩm:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
Ba câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng đủ gợi cho người đọc hình tượng những người lính sát cánh bên nhau cùng chắc tay súng. Trong một không gian rộng lớn, đôi mắt xa xăm hướng về phía trước để canh gác. Họ như đang cùng nhau đối mặt với mọi gian khó để rồi trở thành “đôi tri kỉ”.
Nhà thơ Chính Hữu đã sử dụng một cách tài tình các điệp ngữ cùng những từ liệt kê khiến cho tình đồng chí cao đẹp hơn. Khi phân tích bài thơ đồng chí, ta như nhận ra rằng, Chính Hữu đang thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí gắn bó keo sơn. Cụm từ “Đồng chí” ở cuối bài ngân lên nghe sao thân thiết mà quá đỗi dung dị. Cảm xúc của những người tri kỉ dành cho nhau, không một từ ngữ nào đủ để diễn tả được những cảm xúc ấy.
Từ những người nông dân chất phát, cần cù, quanh năm với ruộng đồng, họ đã lên đường chiến đấu theo tiếng gọi của đất nước. Phân tích bài thơ Đồng chí, chúng ta thấy thật cảm động biết bao với sự hy sinh ấy, với tinh thần chiến đấu ấy.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.”
Với tình yêu quê hương đất nước, các anh đã lên đường, bỏ lại sau lưng xóm làng thân thuộc, với ngôi nhà đơn sơ nơi có những thân yêu luôn dõi theo. Sự ra đi đầy quyết tâm khi bỏ lại ruộng vườn, bỏ lại gian nhà, giếng nước gốc đa, xa rời cuộc sống bình yên để lên đường chiến đấu.
Phân tích bài thơ Đồng chí, chúng ta không thể không nhắc đến chi tiết tình đồng đội gắn bó sâu đậm “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Trong cuộc chiến đấu khốc liệt ấy, đã có biết bao anh hùng đã ngã xuống. Các anh đã cùng nhau trải qua bao gian khổ, khó khăn…. Tuy vậy, tinh thần lạc quan vẫn trỗi dậy lớn lao trong những người chiến sĩ.
Phân tích bài thơ đồng chí đã được cụ thể hóa qua những hình ảnh cụ thể và chân thực. Những người chiến sĩ phải đối mặt với biết bao hiểm nguy, với sự lạnh lẽo, rừng thiêng nước độc, với những trận sốt rét ám ảnh. Không những thế, họ còn trải qua cuộc sống vất vả thiếu thốn.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Câu thơ ngân lên chậm chậm, nhịp thơ trùng xuống như đứt quãng. Phải chăng sự thiếu thốn khó khăn của họ đã khiến cho nhịp thơ sâu lắng hơn? Đất nước ta con nghèo, con đường cách mạng còn nhiều khó khăn gian khổ. Sự thiếu thốn “áo anh rách vai” rồi quần tôi còn mảnh vá đã thể hiện rõ nét tinh thần vững chãi và tâm hồn lạc quan của họ. Nhà thơ như đang tạc lên hình tượng người lính cụ Hồ giản dị nhưng vô cùng cao đẹp. Phân tích bài thơ Đồng chí từ những chi tiết này như một minh chứng về phẩm giá cao quý của những người chiến sĩ.
Biểu tượng đẹp của tình đồng chí trong tác phẩm
Trong quá trình cảm nhận hình tượng người lính cũng như phân tích bài thơ đồng chí, chúng ta còn thấy những khó khăn không chỉ dừng lại ở đó. Những người lính cụ Hồ còn phải đối mặt với biết bao hiểm nguy phía trước:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Những hình ảnh cuối trong tác phẩm cho thấy tư thế hiên ngang kiên cường mà đầy bất khuất của những người lính. Hình tượng người lính sát cánh, chung vai hướng mũi súng nơi kẻ thù hiện lên thật đẹp biết bao. Giữa núi rừng trùng điệp, nơi lạnh lẽo rừng hoang sương muối ấy, những người lính vẫn luôn chắc tay súng.
Hình ảnh ánh trăng soi chiếu giữa trời đất bao la hiện lên nơi đỉnh đầu “đầu súng trăng treo”. Đây được xem là hình ảnh độc đáo nổi bật của bài thơ, cũng là nét đặc sắc tiêu biểu trong ngòi bút của Chính Hữu. Nhà thơ đã rất tài tình khi kết hợp hai hình ảnh này với nhau để tạo nên giá trị nghệ thuật cũng như nội dung to lớn.
Khi phân tích bài thơ Đồng chí trong những lời thơ này, ta còn thấy hình ảnh đó cũng mang giá trị triết lý sâu sắc. Chất thơ lãng mạn và hiện thực khốc liệt đã đưa người đọc vào dòng cảm xúc mênh mang. “Đầu súng trăng treo” đã giúp người đọc cảm nhận được sự gian khổ của cuộc cách mạng cũng như sự niềm tin, sự lạc quan đầy hy vọng của những người lính về tương lai tươi sáng.
Phân tích bài thơ đồng chí, ta bỗng nhớ đến những vần thơ:
“Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết”
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Phân tích bài thơ Đồng chí ta thấy được hình tượng vĩ đại cao đẹp của người chiến sĩ, đồng thời cũng cảm nhận được tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó vượt lên trên mọi gian khổ để lạc quan tin tưởng. Tác phẩm với ngôn ngữ cô đọng, chân thực cùng hình ảnh lãng mạn và nụ cười ngạo nghễ của những người chiến sĩ đã khiến biết bao tâm hồn lay động. Khi phân tích bài thơ Đồng chí, ta còn nhận thấy rằng tình cảm đồng đội đồng chí ấy sẽ còn mãi theo thời gian và sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.