Giới thiệu tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân) và Chí Phèo (Nam Cao)
Khi tiếp xúc với tác phẩm, có thể nói, bạn đọc chưa kịp day dứt khi thấy Tràng phải lay lắt từng ngày trong cái đói khát và tủi nhục để rồi dẫn đến bờ vực của cái chết trong Vợ nhặt của Kim Lân, thì lại một lần nữa đớn đau khi chứng kiến cảnh Chí Phèo chết ngay trên đường trở về với cuộc đời lương thiện trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao.
Kim Lân là một cây bút chuyên viết về truyện ngắn và đặc biệt là về đề tài nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Chính vì thế, văn phong của ông chân thật, gần gũi khiến người đọc dễ dàng đồng cảm trước nỗi đau của người nông dân lúc bấy giờ. Tác phẩm Vợ nhặt, được trích trong truyện ngắn Xóm ngụ cư ra đời cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
Vợ nhặt không chỉ miêu tả rõ nét nạn đói những năm 1945 mà qua đó khám phá ra vẻ đẹp của khát vọng sống trong mỗi con người ” Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết thảm đạm để mà vui, mà hy vọng”
Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, tuy cùng miêu tả số phận và nỗi đau của người nông dân trước Cách mạng nhưng hai nhà văn lại hướng ngòi bút vào những khía cạnh khác nhau. Nếu như Kim Lân phác họa lên bức tranh đói khát, nỗi lo cơm áo gạo tiền thì Nam Cao lại tập trung bút lực để xoáy sâu vào bên trong con người, mà cụ thể là sự thèm thuồng lương thiện của Chí Phèo.
Sự mới mẻ trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao đã khiến ông trở thành nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc trong giai đoạn 1939-1945. Điều này dễ thấy khi tác phẩm Chí Phèo ra đời đã tạo nên tiếng vang lớn, không chỉ đưa tên tuổi của ông đi lên mà còn góp vào nền văn học Việt Nam một thiên truyện đặc sắc.
So sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo qua việc phác họa bi kịch cuộc đời nhân vật
Khái quát cuộc sống khốn khổ gắn liền với số phận người nông dân trước cách mạng
Văn học bao giờ cũng là câu chuyện của cuộc đời, bởi nhiệm vụ đầu tiên của nhà văn là vạch ra những khổ đau, những bất công của nhân loại để mà bảo vệ và phản ánh. Chính vì thế mà cả Kim Lân hay Nam Cao đều hướng ngòi bút nhân đạo của mình đến những nỗi đau của con người, mà đặc biệt là người nông dân trước cách mạng.
Cả hai nhà văn đã vạch nên một xã hội với đầy những bất công ngang trái, nơi người nông dân phải chịu một lúc nhiều chồng áp bức khiến con người mất đi những nét đẹp vốn có. Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, ta thấy rằng họ phải cùng nhau chịu nỗi đau về mặt vật chất.
Nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào họ vẫn sáng ngời những phẩm chất cao quý, tốt đẹp của những con người Việt Nam. Dù bị đẩy đến đường cùng vẫn chứng tỏ mình là một con người lương thiện, dù bị cái đói đeo bám nhưng thì vẫn thể hiện đầy đủ nét đẹp của người Việt Nam khi phải đối diện với cái đói và cái chết.
So sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo qua việc phác họa bi kịch cuộc đời nhân vật
Khái quát cuộc sống khốn khổ gắn liền với số phận người nông dân trước cách mạng
Văn học bao giờ cũng là câu chuyện của cuộc đời, bởi nhiệm vụ đầu tiên của nhà văn là vạch ra những khổ đau, những bất công của nhân loại để mà bảo vệ và phản ánh. Chính vì thế mà cả Kim Lân hay Nam Cao đều hướng ngòi bút nhân đạo của mình đến những nỗi đau của con người, mà đặc biệt là người nông dân trước cách mạng.
Cả hai nhà văn đã vạch nên một xã hội với đầy những bất công ngang trái, nơi người nông dân phải chịu một lúc nhiều chồng áp bức khiến con người mất đi những nét đẹp vốn có. Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, ta thấy rằng họ phải cùng nhau chịu nỗi đau về mặt vật chất.
Nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào họ vẫn sáng ngời những phẩm chất cao quý, tốt đẹp của những con người Việt Nam. Dù bị đẩy đến đường cùng vẫn chứng tỏ mình là một con người lương thiện, dù bị cái đói đeo bám nhưng thì vẫn thể hiện đầy đủ nét đẹp của người Việt Nam khi phải đối diện với cái đói và cái chết.
Khám phá vẻ đẹp tâm hồn của Tràng và Chí Phèo
Tràng khi gặp được người vợ nhặt
Tràng là dân ngụ cư, cuộc sống chịu thiệt thòi. Vì mưu sinh, họ phải tha hương cầu thực nơi đất khách quê người. Thế nhưng, chỉ với hai lần gặp gỡ người đàn bà xa lạ trong hai lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng đã sẵn sàng đãi người đàn bà ấy bốn bát bánh đúc, cho không, biếu không Thị mấy cái thúng con,…
Thế thì có nông nổi không? Trong tình cảnh “đến cái thân mình còn lo chưa xong” mà Tràng lại dẫn Thị về nhà, thêm một miệng ăn là thêm một “cơ hội” chết đói.
Một người đàn bà vốn vô tư, hồn nhiên đã thay đổi trở thành một con người chua ngoa liều lĩnh vì cái đói. Đặc biệt cái đói khiến thị nhắm mắt đưa chân theo không một người đàn ông xấu xí, thô kệch. Đi theo không chàng một cách vô điều kiện, không cần treo hỏi cưới xin cũng chẳng cần sính lễ và chỉ từ mấy câu hò bốn bát bánh đúc.
Họ đã trở thành vợ chồng thật đơn giản mà nực cười, nhưng đó là cái cười ra nước mắt. Chàng, thị, bà cụ cho dù bị cái đói đeo bám, cái chết treo lơ lửng trên đầu nhưng họ đã dùng tình thương, tình yêu để sưởi ấm cho nhau.
Họ luôn tin rằng tương lai sẽ tươi sáng, điều đó được thể hiện rõ trong bữa cơm đón nàng dâu mới mặc dù chỉ có cháo loãng và cháo cám chát xít. Nhưng họ vẫn ăn rất vui vẻ họ nói về chuyện nuôi gà về chuyện đoàn người đi phá kho thóc của Nhật.
Kim Lân đã nêu bật lên tình cảnh cùng đường của con người Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Thế nhưng ông không hề có ý định mỉa mai những cái bất thành nhân của con người mà ngược lại ông muốn đề cao phẩm chất cao quý của con người, khát vọng vươn lên dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào của họ.
Thông qua đó tác giả đã lớn tiếng lên án phê phán chế độ thực dân phong kiến và phát xít lúc bấy giờ, bởi vì đã đẩy con người vào con đường cùng.
Chí Phèo được đánh thức bằng hơi ấm của bát cháo hành từ Thị Nở
Từ khi gặp Thị Nở, lần đầu tiên Chí cảm nhận được hơi thở cuộc sống, nghe thấy tiếng chim hót và tiếng nói cười để biết rằng mặt trời đã lên cao. Rồi có một cảm giác nôn nao buồn khi nghĩ đến ước mơ của cuộc đời mình “hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ”.
Một lần nữa, lần đầu tiên Chí biết đến trạng thái tự ý thức, chính bát cháo hành của Thị Nở đã giúp hắn làm được điều đó. Bát cháo là đại diện của tình người – điều mà tưởng chừng như cả cuộc đời này hắn không bao giờ có được. Sự chăm sóc từ đôi bàn tay người phụ nữ, nó thật ấm áp và mới mẻ so với hắn.
Bát cháo hành và cả tình thương của Thị Nở đã đánh thức phần nhân tính trong thân xác một con quỷ dữ như Chí. Có lẽ vì thế mà “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt” Nam Cao gọi nước mắt là hạt châu của con người, nó cứu lấy, nó gột rửa mọi tội lỗi và giữ con người ở lại phần trong sáng của lương tri.
Đỉnh điểm của sự nhận thức trong chí là sự thèm lương thiện. Tại sao một thứ luôn tồn tại sẵn bên trong mỗi con người nhưng khiến Chí phải thèm. Bởi mọi người không công nhận hắn, gạt bỏ sự tồn tại của hắn. Giọng văn Nam Cao còn khiến người đọc tức tưởi hơn khi chứng kiến cảnh Chí chết giữa đường tìm về với sự lương thiện bởi cái nhìn đay nghiến của con người bấy giờ đại diện qua nhân vật bà cô.
Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo qua hai tác phẩm
Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, người đọc mới cảm nhận hết nỗi đau số phận của người nông dân trong thời đại bấy giờ. Nếu không là một cuộc sống đói khát đến chết trong Vợ nhặt thì kinh khủng hơn đó là những định kiến của xã hội khô khốc và lạnh lùng ấy đã làm biến dạng một nhân cách con người trong Chí Phèo.
So sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, sở dĩ có sự khác biệt về cách nhìn và cách thể hiện khi viết về những người nông dân trong “Chí Phèo” và “Vợ Nhặt” vì tác phẩm “Chí Phèo” viết trước cách mạng, khi đó nhà văn chưa nhìn thấy được ánh sáng của Đảng, sự bế tắc của tác phẩm cũng chính là sự bế tắc chung của nhiều tác phẩm khác như “tắt đèn”, “bước đường cùng” còn đến với “vợ nhặt” tác phẩm được viết sau cách mạng nhà văn đã nhìn thấy ánh sáng của Đảng nên ông đã mở đường cho nhân vật của mình. Bởi ông hiểu rằng muốn có cuộc sống hạnh phúc tự do, con người phải đến với ngày hội quần chúng phải cứu mình trước khi trời cứu.
Qua bài viết so sánh nhân vật Tràng và Chí phèo, chúng ta đã hiểu rõ hơn về nỗi đau số phận của người nông dân trong xã hội bấy giờ. Để từ đó bạn đọc được đồng cảm và khám phá vẻ đẹp tiềm tàng trong họ.