Phân tích và cảm nhận về tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta thấy đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng nên chân dung tâm hồn của Kiều trong cơn bĩ cực, qua đó mang đến cho người đọc những xúc cảm chân thành, xúc động trước một nàng Kiều tài hoa mà bạc phận. Trong bài viết sau, hãy cùng DINHNGHIA.VN cảm nhận về tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Thân phận người phụ nữ vốn mỏng manh cần được bảo vệ, chở che nhưng trong xã hội phong kiến đau đớn thay, thân phận ấy lại bị cuộc đời vùi dập. Kể cả Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn ấy cũng không thể thoát khỏi sự trớ trêu xoay vần của con tạo. Cuộc đời của Kiều luôn lẩn quẩn trong vòng xoáy của cuộc đời, chìm đắm trong nỗi buồn sầu tủi miên man. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là khi bi kịch ấy được đẩy lên đến đỉnh điểm về số phận của nàng Kiều tài hoa mà truân chuyên.
Vị trí đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm ở phần hai – Gia biến và lưu lạc. Sau khi quyết định bán mình chuộc cha, trao đi mối duyên tình của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, cuộc đời Thúy Kiều rơi vào một chuỗi ngày bi kịch. Lên đường theo Mã Giám Sinh, Kiều dự cảm được những ngày tháng u ám sẽ đến với cuộc đời nàng.
Nhưng điều Kiều không lường trước được rằng mình đã bị lừa bán vào lầu xanh làm nghề “mua phấn bán hương”. Kiều uất ức và có ý định tự vẫn. Trước tình thế đó, Tú bà đã vờ hứa với Kiều đợi nàng bình phục sẽ tìm nơi tử tế gả nàng vào. Sau đó, Tú bà đã đưa nàng vào giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác. Trong tình cảnh bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều vẫn không ngừng nhớ về gia đình, về Kim Trọng.
Cảm nhận về tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích
Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là nỗi cô đơn đến rợn ngợp trước khung cảnh thiên nhiên, nỗi nhớ da diết về gia đình và Kim Trọng cũng như nỗi buồn miên man cùng những dự cảm về số phận truân chuyên của mình.
Sự cô đơn đến rợn ngợp trước khung cảnh thiên nhiên
Trong phần đầu đoạn trích, tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là những nỗi cô đơn đầy rợn ngợp trước khung cảnh thiên nhiên. Một mình nơi lầu Ngưng Bích, Kiều đã có những khoảng lặng cần thiết để suy ngẫm về cuộc đời, thân phận mình. Thiên nhiên nơi đây tuy mang vẻ đẹp thanh tao nhưng không khiến nàng khuây khỏa mà ngược lại càng khiến nàng cảm thấy cô đơn, lạc lõng.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Mở đầu đoạn trích, ta thấy Kiều đã hoàn toàn ý thức về hiện thực của nàng. Điều ấy được thể hiện qua từ “khóa xuân”. “Khóa xuân” có nghĩa là khóa kín tuổi xuân. Đối với Kiều, tuổi xuân của nàng đã mất đi từ chính cái giây phút nàng quyết định bán mình chuộc cha, dập tắt mối tình với Kim Trọng.
Và trong hoàn cảnh hiện tại, “khóa xuân” ý chỉ việc nàng bị giam lỏng ở nơi này không được tự do. Hiện tại nàng phải chịu biết bao đau đớn dằn vặt. Bởi lẽ, nàng phải xa gia đình, một mình lưu lạc đến nơi xa lạ, tương thì vô định mù mịt. Nguyễn Du đã đặt nhân vật trong cảnh ngộ ấy để nàng tự bộc lộ nỗi lòng mình.
Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích càng trở nên u sầu hơn trước không gian rộng lớn bao la trước mặt lại càng khiến nàng càng thêm cô quạnh. Từ trên lầu cao trông ra nàng ngắm dãy núi xa và “mảnh trăng gần” như cùng trong một vòm trời khiến cảnh vật trước mắt như nhạt nhòa mọi ranh giới bị phá vỡ để mở ra một khoảng không gian mênh mông.
Từ điểm nhìn trên cao, Kiều lại chuyển điểm nhìn về mặt đất. Cơ hồ, nàng đang tìm một điểm tựa nhìn càng tìm kiếm thì càng vô vọng. Bởi xung quanh nàng chỉ là “bốn bề bát ngát”. Một bên là cồn cát càng nổi lên nhấp nhô như sóng lượn, một bên là bụi hồng trải ra hàng dặm xa. Trong không gian rộng lớn ấy, tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích bỗng chốc trở nên nhỏ bé, sự cô đơn như bủa vây tâm hồn nàng. Nỗi buồn của Kiều như thấm đẫm cả không gian, thời gian.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi được vòng thời gian tuần hoàn, đó là một vòng tròn khép kín. Cuộc sống của con người trong vòng thời gian lặp lại ấy cũng đơn điệu nhàm chán. Không chỉ không gian mà dường như cả thời gian cũng giam hãm con người, dồn con người vào bước đường cùng.
Tất cả chỉ còn là “bẽ bàng” mà thôi, Nỗi niềm ấy cho thấy nỗi đau đớn tột cùng “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Sự cô đơn đến rợn ngợp, trào dâng trong tâm hồn của Kiều. Sự cô đơn ấy như bóp chặt trái tim nàng, dập tắt đi mọi hy vọng. Và sự cô đơn ấy, Kiều nào có thể giãi bày với ai cũng như không thể xua tan.
Nỗi nhớ da diết về gia đình và người thương – Kim Trọng
Từ sự cô đơn của hiện tại, tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích đã chuyển sang nỗi nhớ về quá khứ, nhớ về gia đình, về chàng Kim.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ”
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Đối tượng đầu tiên xuất hiện trong tâm trí nàng lúc này đây chính là mối tình đầu tươi đẹp của nàng – chàng Kim. Khi cô đơn, người ta thường nhớ đến những ký ức vui vẻ, ấm áp nhất. Đối với Kiều, điều hạnh phúc cũng như điểm sáng trong bức tranh cuộc đời u ám của nàng chính là Kim Trọng.
Vì thế, tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích đã được đại thi hào Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế khi để cho nhân vật của mình nhớ đến Kim Trọng trước khi hướng đến gia đình. Điều đó là phù hợp với quy luật của trái tim. Vừa mới hôm nào mặn nồng hẹn ước bên nhau, giờ đây xa cách phương trời mỗi người một nơi.
Sau đêm thề nguyền ngỡ chỉ cần một bước nữa thôi là nàng và Kim Trọng sẽ hạnh phúc trọn đời bên nhau “dưới nguyệt chén đồng”. Nhưng mấy ai ngờ, tạo hóa trêu ngươi. Gia biến xảy ra, gia đình Kiều tan nát và cuộc đời nàng từ đây rẽ sang một đoạn đường khác. Chuyện cứ ngỡ như ngày hôm qua đầy bàng hoàng đau xót. Bao nhiêu đau xót dồn nén lại trong từ “tưởng”. Chén rượu thề nguyền chưa ráo mà nàng đã đành dập tắt đi tình yêu. Bởi lẽ đó nên Kiều luôn cho rằng chính mình đã phụ chàng như chính nàng đã từng tự trách
“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ chàng với hoa”
Nhưng Kim Trọng ở nơi quê nhà hộ tang chú nào có biết giây phút chia tay ấy cũng là giây phút chia xa không gặp lại. Lúc này đây, Kiều vẫn mang trong mình mặc cảm tội lỗi với Kim Trọng. Bao câu hỏi băn khoăn cứ xuất hiện. Liệu chàng Kim còn chờ nàng? Có thể thấy, tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích đầy sự tơ vò và rối bời với biết bao dư cảm và câu hỏi…
Liệu chàng Kim đã biết điều xảy ra với gia đình nàng, với nàng và với mối tình này chưa? Mọi chuyện cũng chỉ trở nên vô ích mà thôi bởi không có cách nào thay đổi sự thực là họ đã chia xa. Còn hoàn cảnh của nàng hiện tại chỉ là “bên trời góc bể bơ vơ”, như cánh chim lạc bầy, chàng Kim có nhớ đến cũng chỉ vô vọng mà thôi. Nhưng dù hiện tại thế nào, vùi dập cuộc đời ra sao nhưng điều sẽ không thay đổi chính là tấm “lòng son” mà nàng dành cho Kim Trọng. Càng nhớ về Kim Trọng thì nàng càng cô đơn trống trải mà thôi. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích còn là mặc cảm tội lỗi với người thương…
Sau khi hướng về Kim Trọng, tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là nghĩ đến gia đình:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Kiều tưởng tượng về gia đình về cha mẹ. Dù mọi việc đã thu xếp ổn thỏa nhưng Kiều vẫn không thể yên tâm. Vắng nàng cha mẹ sẽ thế nào? Tâm trạng họ giờ ra sao? Liệu hai em có chăm sóc tốt cho cha mẹ hay không? Thời gian thấm thoát thoi đưa, chắc giờ đây cha mẹ nàng đã “sương pha mái đầu”. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích còn là nỗi băn khoăn về chữ hiếu, về nỗi thương nhớ cha mẹ.
Nỗi nhớ kèm với sự day dứt không thể ở cạnh bên phụng dưỡng cha mẹ cứ lớn dần lớn dần ám ảnh nàng. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” kết hợp với điển cố “sân Lai”, “gốc tử” cho thấy được tấm lòng hiếu thảo của nàng. Cụm từ “Cách mấy nắng mưa” càng thêm gợi sự xa cách của không gian, sự thay đổi của thời gian. Nỗi lòng ấy mấy ai hiểu thấu, chỉ có trời xanh kia soi tỏ nỗi lòng nàng. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là sự đấu
Nỗi buồn và dự cảm về số phận của nàng Kiều
Hết nghĩ đến Kim Trọng, Kiều lại nghĩ về gia đình. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích còn là hàng vạn câu hỏi đặt ra trong vô vọng không có lời giải đáp, Kiều càng thêm cô đơn. Từ nỗi nhớ nhung giờ đây đã chuyển thành nỗi buồn. Kiều cuối cùng đã nghĩ đến bản thân mình, đến thân phận mình.
“Buồn cảnh cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trôi nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Tám câu thơ chất trong trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích đã chất chứa nỗi buồn đau tê tái cùng sự hoang mang lo sợ của chủ thể trữ tình – nàng Kiều. Điệp từ “buồn trông” được lặp lại bốn lần ở những câu thơ 6 chữ, vừa diễn đạt trọn vẹn tâm thế của Kiều trong cảnh, lại vừa góp phần tạo nên âm hưởng và nhịp điệu da diết cho toàn đoạn thơ.
Có thể thấy, khi cảm nhận và phân tích tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta thấy đây là bức tranh tâm trạng đầy xúc động. Sự chuyển hóa vận động của thiên nhiên cho thấy được sự vận động dữ dội trong nội tâm nhân vật. Một mình nàng giữa khung cảnh mênh mông, Kiều cảm thấy mình thật cô đơn. Một bên nỗi nhớ người yêu, một bên là nỗi nhớ gia đình. Nỗi nhớ nào cũng da diết, day dứt.
Câu thơ miêu tả cảnh cửa biển mênh mang trong nắng chiều đang tàn dần. Cánh buồm giữa khung cảnh rộng lớn ấy bỗng trở nên nhỏ bé lẻ loi như có lại như không chỉ là “xa xa”, “thấp thoáng”. Hai từ láy không chỉ gợi cảnh mà còn gợi tình. Cánh buồm chỉ trở thành một điểm nhỏ mờ ảo giữa cảnh “cửa bể chiều hôm” cũng giống như cuộc đời Thúy Kiều.
Con thuyền cô độc mờ ảo lênh đênh cũng giống như thân phận nàng không biết sẽ đi về đâu giữa dòng đời. Hình ảnh “hoa trôi man mác” cũng là cách nói ẩn dụ, gợi liên tưởng đến thân phận nàng Kiều. Thuyền trôi trong vô định, hoa cũng rơi trong vô định. Tương lai đối với nàng cũng mờ mịt, chỉ đành nhắm mắt đưa chân mặc cho dòng đời đảo điên xô đẩy. Bởi cánh hoa mỏng manh, còn gì đau đớn hơn cho cánh hoa phải lìa cội lìa cành như chính Kiều phải lìa xa gia đình. Như vậy, tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là những giằng xé trong tâm can, những nỗi niềm không biết tỏ cùng ai…
Hoa xa cội xa cành, hoa héo hoa tàn. Kiều xa gia đình, xa người yêu thì nàng cũng chẳng còn lại gì. Nếu ở những dòng thơ trên thiên nhiên mênh mông vô định thì ở dòng thơ tiếp theo đó là khung cảnh thiên nhiên đượm màu sắc u buồn, sầu thảm – “nội cỏ rầu rầu”, “một màu xanh xanh”. Nội cỏ ấy gợi liên tưởng đến nội cỏ nơi nấm mộ ven đường của Đạm Tiên:
“Sè sè nắm đất bên đường
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
Bức tranh thiên nhiên úa tàn thiếu đi sức sống như chính Kiều cũng đang héo tàn dần dù vẫn trong độ tuổi xuân xanh. Giữa bốn bề thanh vắng ấy, bỗng một thanh âm vang lên. Nhưng thanh âm ấy không vui tươi mà mang màu sắc dữ dội. Hình ảnh những đợt sóng cuộn lên dồn dập.
Kiều thấy “gió cuốn”, nghe tiếng sóng “ầm ầm” bỗng thấy lo lắng hãi hùng. Nỗi sợ hãi đã đưa Kiều vào tâm trạng não nề, hoảng hốt như bị nhấn chìm giữa vòng xoáy cuộc đời. Kiều chới với như rơi vào vực thẳm. Những thanh âm ấy như đã dự báo trước cuộc đời của Kiều, chặng đường chông gai phía trước vẫn còn dài. Phép điệp “buồn trông” đã gợi mở tâm trạng của Kiều. Điệp khúc ấy cứ vang vọng mọi nơi, soi chiếu vào cuộc đời nàng những nốt trầm buồn, như chính khúc đàn bạc mệnh mà nàng đã từng đàn.
“Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Chỉ với tám dòng thơ nhưng Nguyễn Du đã khéo léo khắc họa thành công tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Đánh giá nghệ thuật xây dựng tâm lí nhân vật của Nguyễn Du
Qua việc cảm nhận tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta thấy với bút pháp tả cảnh ngụ tình hài hòa cùng sự miêu tả tâm lý bậc thầy, Nguyễn Du đã khéo léo thể hiện được mối tương giao giữa khung cảnh thiên nhiên và tâm trạng con người.
Thiên nhiên không hờ hững lạnh lùng trước nỗi buồn của con người mà thiên nhiên cùng con người chia sẻ. Nguyễn Du bằng cái tài và cái tâm của mình đã dệt nên một bức tranh tâm trạng đầy xúc động. Qua đó, ta cảm nhận được tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích trong giây phút đau đớn này. Dù trong những giây phút bế tắc của cuộc đời Kiều vẫn nghĩ về gia đình về chàng Kim. Và càng thêm cảm thông cho cảnh ngộ éo le của Kiều nhưng đây chỉ mới là khúc dạo đầu cho số phận bi kịch của nàng như chính Nguyễn Du đã từng thốt lên
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Như vậy, tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích như là một minh chứng cho nhận định của Nguyễn Du:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu.
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất của Truyện Kiều. Từ bức tranh cảnh, Nguyễn Du đã thổi hồn vào đó, xây dựng nên hình ảnh về một nàng Kiều tài hoa mà truân chuyên đoạn trường. Tình cảm của đại thi hào khi thể hiện tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích cũng là tiếng lòng chung của triệu triệu trái tim những người đã, đang và sẽ thổn thức cùng Kiều. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên.”
Bài viết trên của DINHNGHIA.VN đã giúp bạn có những phân tích và cảm nhận về tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích. Hy vọng những kiến thức trên sẽ hữu ích với bạn trong quá trình học tập. Chúc bạn luôn học tốt!
Xem thêm:
- Phân tích Chị em Thúy Kiều trích đoạn trong Truyện Kiều – Nguyễn Du
- Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga [Bài viết HAY NHẤT]